
Giải ngân 100% vốn đầu tư công
Trong phiên chất vấn Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng ngày 19/6, nhiều vấn đề liên quan tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8% được nêu ra.
Đại biểu Trần Kim Yến (đoàn TPHCM) đề cập đến bối cảnh thế giới đang có những biến động khó lường, đặc biệt là những chính sách thuế quan mới cũng như những bất ổn địa chính trị. Các tổ chức quốc tế đều hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu từ 0,5% đến 1%.
Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên – đây là một trong những thách thức rất lớn, đòi hỏi quyết tâm cao và tư duy phải mới. Một trong các giải pháp là đẩy mạnh đầu tư công, giải ngân đạt 100%. Tuy nhiên trong thời gian qua, dù nỗ lực rất lớn nhưng tỷ lệ giải ngân đầu tư công vẫn rất thấp, dân kêu trời có tiền nhưng không sử dụng được.
Về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết trong 5 tháng qua, Chính phủ đã nỗ lực để đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công. Và kết quả không phải thấp, so với cùng kỳ năm ngoái thì kết quả cao hơn. Theo đó, số vốn giải ngân đạt 200.000 tỷ đồng, tỷ lệ giải ngân là hơn 24,1% kế hoạch, cao hơn cùng kỳ năm 2024 (đạt xấp xỉ 22%). Tất cả dự án trọng điểm đều đạt hoặc vượt tiến độ.
“Hiện nay, chúng ta đặt ra mục tiêu phải giải ngân 100% vốn đầu tư công đóng góp tăng trưởng kinh tế với mục tiêu tăng trưởng 8%”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Ông cho biết Chính phủ đã xác định được những nguyên nhân khiến giải ngân vốn đầu tư công như quy trình đầu tư công nhiều giai đoạn, chuẩn bị dự án chưa tốt, hệ thống pháp luật còn thiếu, chồng chéo, nguồn cung nguyên vật liệu, năng lực thực hiện một số bên liên quan, đặc biệt là địa phương, ban quản lý dự án chưa đạt yêu cầu
Giải pháp được người đứng đầu Bộ Tài chính nêu ra như tập trung tháo gỡ những vướng mắc pháp lý trong đầu tư công về đất đai, xây dựng, thủ tục hành chính. Ông cho biết cũng cần xác định kết quả giải ngân là căn cứ quan trọng khi đánh giá xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ năm 2025 đối với các tập thể, cá nhân. Ngoài ra, Chính phủ sẽ tiếp tục phát huy các tổ chức, tổ công tác để tháo gỡ vướng mắc, nhất là dự án trọng điểm.
“Chia lửa” cùng Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng vào đầu giờ chiều 19/6, Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc cũng đề cập đến những điểm sáng để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công. Ông cho biết các nguyên nhân khiến giải ngân vốn đầu tư công chậm đã được Quốc hội sửa đổi trong Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công. Sắp tới, những vấn đề này sẽ được giải quyết một cách rất đầy đủ.

Phó thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc (Ảnh: Phạm Thắng).
Thúc đẩy tiêu dùng nội địa
Tiêu dùng nội địa là động lực quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ước tính tiêu dùng đóng góp khoảng 70% GDP. Tuy nhiên, đại biểu Triệu Thế Hùng (đoàn Hải Dương) lo ngại gần đây, tiêu dùng nội địa tăng trưởng chậm lại do sức mua giảm sút và niềm tin người tiêu dùng bị ảnh hưởng do gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém chất lượng.
Bộ trưởng Bộ Tài chính cũng cho rằng tiêu dùng nội địa là động lực rất quan trọng và cần thúc đẩy mạnh mẽ trong những tháng cuối năm và trong giai đoạn 2026-2030 để cùng với các động lực khác đóng góp vào tăng trưởng kinh tế đất nước.
Hiện nay, tốc độ tăng trưởng tiêu dùng tương đương với các tháng trước dịch, 5 tháng đầu năm thì tăng trưởng tiêu dùng là 9,7%. So với yêu cầu đặt ra là chưa đạt, kịch bản đặt ra phải là 12% trở lên. Để thúc đẩy tiêu dùng, ông cho rằng cần triển khai và kết hợp toàn diện giữa chính sách tài khóa và tiền tệ,
Về giải pháp, Bộ trưởng nhấn mạnh phải củng cố niềm tin của người tiêu dùng. Việc đấu tranh chống hàng giả hàng nhái, kém chất lượng để củng cố niềm tin cho người tiêu dùng.
Thứ hai là phải ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tỷ giá để người dân hạn chế tích trữ. Ông nhấn mạnh Việt Nam phải tăng cường ổn định hàng hóa trong nước, đặc biệt trong mùa lễ tết, du lịch. Giá rẻ thì nhu cầu mua nhiều hơn. Đẩy mạnh phòng chống hàng giả, buôn lậu, gian lận xuất xứ, xử nghiêm các vi phạm sở hữu trí tuệ, an toàn vệ sinh thực phẩm…
Một giải pháp khác là tăng thu nhập, làm tốt các chính sách an sinh xã hội, trợ cấp để người dân yên tâm chi tiêu… Điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân theo hướng giảm bớt gánh nặng cho người có thu nhập trung bình và thấp.
Ngoài ra, Chính phủ cần thúc đẩy các mô hình kinh doanh trên các nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số, khuyến khích chi tiêu online, đẩy mạnh cho vay tiêu dùng lãi suất thấp.
Bộ trưởng cũng đề cập đến tăng tiêu dùng nội địa bằng kích cầu du lịch trong nước, thu hút khách du lịch trung và cao cấp nước ngoài gắn với dịch vụ trong các khu kinh tế đêm, phát triển thị trường tiêu dùng nông thôn, mở rộng khu vực xa trung tâm. Cải thiện hạ tầng giao thông, logistics để đưa hàng hóa tốt, giá cả hợp lý đến vùng sâu vùng xa, vùng nông thôn.
Huy động nguồn lực cho tăng trưởng
Hiện nay, nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế năm 2025 và giai đoạn 2026-2030 rất lớn trong khi nguồn ngân sách Nhà nước có hạn. Bộ trưởng nhấn mạnh để phục vụ mục tiêu tăng trưởng 8% thì không thể chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước, nhất là giai đoạn 2026-2030.
“Chúng ta phải sử dụng tổng hòa các nguồn lực, ngân sách Nhà nước là vốn mồi, từ đó kích thích các nguồn vốn từ xã hội, chúng ta đẩy mạnh công cụ huy động vốn từ phát hành trái phiếu, quỹ đầu tư, từ thị trường chứng khoán để cùng với các nguồn vốn khác đảm bảo đủ nguồn lực phục vụ nền kinh tế”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nêu giải pháp.
Vừa qua, Chính phủ cũng rất quyết tâm triển khai phát triển hạ tầng giao thông phạm vi toàn quốc. Đơn cử, ngay từ khi Chính phủ chỉ đạo trình Quốc hội đặt 3.000 km cao tốc thì ngân sách khó khăn nhưng hiện tại Chính phủ đang kiểm soát rất tốt an toàn nợ công.
Các dự án được cân đối triển khai, kể cả các dự án đều cân đối cụ thể xem dự án nào dùng ngân sách Nhà nước, dùng thì dùng bao nhiêu phần trăm, dự án nào thì đi vay… và cân đối hiệu quả, an toàn kinh tế – xã hội và hiệu quả tài chính. Bộ trưởng cho biết với dự án vay cũng được cân nhắc vay ở đâu, vay ODA hay phát hành trái phiếu.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng (Ảnh: Phạm Thắng).
Ông cho rằng việc tăng nguồn lực sẽ được xem xét thận trọng và quan trọng nhất là dự án vận hành có hiệu quả. Theo đó, nếu vay mà dự án hiệu quả thì vẫn có “của ăn của để”, đóng góp cho xã hội.
“Đại biểu yên tâm về vấn đề nợ quốc gia, nợ Nhà nước. Chúng ta muốn phát triển thì phải sử dụng đòn bẩy, tăng cường xã hội hóa, tăng cường vay nhân dân, vay ODA, vay từ các tổ chức tài chính quốc tế… Nếu không đi vay thì không bao giờ có tăng trưởng cao, nhất là khi chúng ta đặt mục tiêu tăng trưởng 2 con số. Điều quan trọng là tạo ra của cải, ngân sách để vừa tăng ngân sách vừa trả nợ”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc cũng nêu quan điểm ngoài ngân sách Nhà nước, để đạt được mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên thì cần huy động từ FDI, PPP, ODA và các nguồn đầu tư khác. Ông cho biết Chính phủ cố gắng kiểm soát để nợ trần không vượt mức cho phép. Tỷ lệ nợ công hiện chỉ 34,7%.
Vì vậy điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ một cách hợp lý với tinh thần tiết kiệm để phục vụ cho đầu tư phát triển, quay trở lại để tăng thu ngân sách, từ đó quay trở lại phát triển kinh tế đất nước, phục vụ cho an sinh xã hội.
Ví dụ với nguồn vốn FDI, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nền kinh tế, Việt Nam đang định hình chiến lược cạnh tranh riêng để thu hút đầu tư FDI và phát triển bền vững. Về thu hút FDI, Việt Nam chuyển trọng tâm ưu đãi thuế sang nâng cao chất lượng môi trường đầu tư và dịch vụ hỗ trợ, chú trọng phát triển hạ tầng, đảm bảo nguồn điện, đảm bảo quỹ đất sạch, nhân lực chất lượng cao, rút ngắn thủ tục hành chính.
Việt Nam tận dụng lợi thế 17 FTA đã ký để mở rộng thị trường, qua đó hấp dẫn doanh nghiệp FDI, nỗ lực đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Tiếp tục mở rộng quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với các quốc gia hàng đầu thế giới. Việt Nam cũng tham gia sáng kiến đối thoại với nhà đầu tư. Thông qua đối thoại và hợp tác đa phương vừa tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật, vốn vừa quảng bá hình ảnh của Việt Nam thân thiện với nhà đầu tư.
Tăng cường hiệu quả đầu tư, đột phá khoa học công nghệ
Đại biểu Đoàn Thị Thanh Mai (đoàn Hưng Yên) đặt vấn đề về hiệu quả đầu tư. Theo mục tiêu về giai đoạn phát triển lâu dài, mức tăng trưởng cao, nhưng chỉ số tăng trưởng năm 2024 chỉ đạt 7,5%.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho biết theo dự báo, kịch bản giai đoạn 2026-2030, nhu cầu đầu tư phát triển rất lớn, chiếm 40% GDP với mức tăng trưởng hàng năm 17-20% – mức rất cao so với mức độ tăng trưởng kinh tế hiện nay. Hiện nay, đầu tư chỉ chiếm 33% GDP.
Theo ông, nếu một quốc gia đặt tăng trưởng 10% trở lên thì đầu tư toàn xã hội phải xấp xỉ 40% GDP, đồng thời tăng hiệu quả đầu tư bằng chỉ số ICOR 6-7 và phấn đấu giảm xuống 4-5.
Một số giải pháp chủ yếu được Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nêu ra như phấn đấu dành tối đa ngân sách cho đầu tư phát triển, có giải pháp đột phá, đa dạng cho doanh nghiệp tư nhân, nhà nước, FDI, vốn trong dân… vốn ngân sách chỉ là vốn “mồi” để kích hoạt các vốn khác. Bất cứ dự án nào doanh nghiệp có thể tham gia thì ưu tiên doanh nghiệp, Nhà nước tham gia hỗ trợ (trừ dự án có tính an ninh quốc phòng).
Ngoài ra cần phát triển mạnh mẽ kênh huy động vốn từ thị trường vốn, tích cực tháo gỡ khó khăn để đưa dự án tồn đọng trên cả nước vào vận hành. Hiện nay các dự án tồn đọng vốn lớn, tính theo tổng đầu tư phải trên 5 triệu tỷ đồng.
Bộ trưởng cũng nhấn mạnh đến việc thúc đẩy kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng năng suất lao động, không đầu tư dàn trải mà Nhà nước tập trung dự án thiết yếu, tăng cường nghiên cứu phát triển.
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Nghị quyết góp phần làm nên tiềm lực để tăng trưởng 2 chữ số sau nhiều năm đất nước trong tình trạng thiếu vốn.
Bộ trưởng khẳng định hiện nay các quy định về thể chế thúc đẩy khoa học công nghệ, chuyển đổi số theo Nghị quyết 57 đã được thúc đẩy, sửa đổi. Các nguồn lực, thể chế đã mở ra hết, chỉ còn một nội dung nữa như tôi đã báo cáo liên quan đến trình Chính phủ ban hành Nghị định về PPP về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Thể chế thúc đẩy khoa học công nghệ, chuyển đổi số theo Nghị quyết 57 đã được thúc đẩy, sửa đổi (Ảnh: IT).
“Toàn bộ cơ chế liên quan đến Nghị quyết 57 đã được đáp ứng. Ngân sách năm nay cũng đã đáp ứng”, ông cho biết
Nguồn cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo cho giai đoạn 2026-2030 rất lớn, chiếm 2% GDP thậm chí có thể tăng lên 5% theo chỉ đạo của Tổng bí thư.
Đẩy mạnh vai trò của doanh nghiệp Nhà nước
Các đại biểu Quốc hội cũng chất vấn Bộ trưởng Bộ Tài chính về vai trò doanh nghiệp Nhà nước trong đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng GDP 8%.
Bộ trưởng cho biết với vai trò sở hữu đối với 18 doanh nghiệp, Tổng công ty Nhà nước, mới đây Bộ Tài chính đã ban hành các mục tiêu tăng trưởng. Đầu tiên, Bộ đã yêu cầu các doanh nghiệp, tập đoàn, tổng công ty phải điều chỉnh kế hoạch kinh doanh để đưa mục tiêu tăng trưởng thấp nhất phải 8% trở lên.
Thứ hai, Bộ Tài chính đẩy mạnh cải cách, sửa đổi mạnh mẽ thể chế gắn với các doanh nghiệp. Đồng thời, các doanh nghiệp phải chủ động thay đổi tư duy quản lý.
Hiện nay, Nhà nước đã tạo điều kiện tốt nhất, chỉ quản lý phần vốn góp, không quản lý doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp phải chủ động tận dụng tối đa nguồn lực, đặc biệt là nguồn vốn để kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất, tập trung đầu tư có trọng tâm.
Thứ ba, Nhà nước thông qua người đại diện để theo dõi doanh nghiệp và hỗ trợ kịp thời để vượt qua khó khăn trong quá trình triển khai mục tiêu, kế hoạch đề ra.
Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết cơ quan này đã yêu cầu các doanh nghiệp khi Nhà nước đã mở ra cơ chế, gần như được chủ động giống doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy, việc đặt mục tiêu tăng 8% là để các doanh nghiệp đồng hành với Đảng, Nhà nước, nhân dân.
Các doanh nghiệp mà Bộ Tài chính đang quản lý đều tương đối tốt. Bộ trưởng cho biết Bộ Tài chính đã rà soát và thấy rằng hoàn toàn có khả năng triển khai thành công kế hoạch kinh doanh tăng trưởng 8%. Cùng đó, các doanh nghiệp cũng phải cắt giảm chi phí, quan tâm hơn tới kế hoạch kinh doanh.
Về mặt quản trị, Bộ trưởng cho rằng doanh nghiệp Nhà nước cần có thống nhất về nhận thức về quản trị doanh nghiệp, phải nâng cao trách nhiệm, tính chuyên nghiệp trong thực hiện chức năng đại diện vốn chủ sở hữu tại doanh nghiệp.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng phải nâng cao tính chủ động của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, chủ tịch… và cần minh bạch công khai thông tin, mở rộng hợp tác quốc tế và tận dụng những tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới, chuyển đổi số vào quản trị điều hành, gắn với đổi mới công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.