
Đàm phán Việt – Mỹ trong kí ức của ông Nguyễn Đình Lương (Video: Vũ Thịnh).
Kể từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc Đổi mới năm 1986, những cải cách về kinh tế và mở lối cho kinh tế thị trường đã trở thành “ngọn hải đăng” cho sự thay đổi thần kỳ trong phát triển kinh tế – xã hội.
Trong tiến trình, Hiệp định Thương mại Việt Nam – Mỹ (BTA) ký kết ngày 13/7/2000, có hiệu lực từ ngày 10/12/2001, đã mở ra cánh cửa hội nhập cho Việt Nam, mở đường cho Việt Nam đàm phán và gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cũng như đàm phán và ký kết nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương khác.
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945-19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945-2/9/2025), phóng viên báo Dân trí đã có cuộc trò chuyện với ông Nguyễn Đình Lương, nguyên Trưởng đoàn Đàm phán Hiệp định BTA.
Ông Lương chia sẻ nhiều góc nhìn sâu sắc về ý nghĩa lịch sử của chặng đường 80 năm, những khó khăn, quyết tâm và khát vọng đưa Việt Nam hội nhập cũng như trải nghiệm đặc biệt trong tiến trình giúp đất nước vươn mình mạnh mẽ trên trường quốc tế.

Khi bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại với Mỹ, chúng ta gặp phải những khó khăn gì thưa ông?
– Giai đoạn 1970-1980, chiến tranh để lại cho Việt Nam nhiều đau thương, mất mát. Còn với Mỹ, đài tưởng niệm 58.000 lính Mỹ đã mất mạng, mất tích trong chiến tranh tại Việt Nam được dựng lên ở Washington DC, bằng tiền đóng góp của các cựu chiến binh Mỹ. Trên nền tảng đó, việc 2 nước tìm cách xây dựng quan hệ kinh tế là điều không dễ dàng.
Đàm phán Việt – Mỹ thành công, chúng ta có một Việt Nam thống nhất, độc lập. Hơn nữa, Việt Nam có vị trí rất đắc địa mà các quốc gia lớn như Mỹ, Trung Quốc… đều cần.
Khi ấy, kinh tế nước ta còn rất khó khăn, Liên Xô tan rã, nguồn viện trợ, buôn bán 80-90% với Liên Xô cũng hết. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, xu thế chung của thế giới là mở cửa và hội nhập kinh tế.
Trong bối cảnh đó, WTO được thành lập, trở thành trụ cột quan trọng điều phối thương mại toàn cầu. Nhiều quốc gia chưa phải thành viên đã nhanh chóng xúc tiến các thủ tục, nỗ lực đàm phán để gia nhập, nhằm không bỏ lỡ cơ hội hội nhập vào “sân chơi” chung này.

Với nhận thức “kinh tế thị trường không phải là sản phẩm của kinh tế tư bản mà là sản phẩm của xã hội loài người”, Đảng ta đã chủ trương đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Nhưng, chính xác thế nào là kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là điều chúng ta cần phải nghiên cứu, giải mã.
Đảng ta đã khởi xướng công cuộc Đổi mới từ năm 1986. Ở thời điểm đó, Mỹ là nền kinh tế số một thế giới, có sức chi phối mạnh mẽ không chỉ đối với dòng chảy thương mại toàn cầu mà còn đối với các thiết chế kinh tế quốc tế, trong đó có WTO.
Thực tế cho thấy, hầu như không quốc gia nào có thể gia nhập WTO nếu không nhận được sự đồng thuận từ phía Mỹ. Vì vậy, việc thâm nhập được vào thị trường Mỹ mang ý nghĩa chiến lược đối với Việt Nam: Một khi khai thông được cánh cửa này, Việt Nam sẽ thuận lợi hơn trong việc mở rộng sang thị trường châu Âu, tiến tới gia nhập WTO và hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới.
Năm 1996, khi được giao làm Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Thương mại Việt Nam – Mỹ (BTA), tôi rất trăn trở. Khi ấy, chúng ta không biết gì về Mỹ, thông tin không có, mọi thứ đều quá xa vời. Nói về luật pháp thì cách đây hơn 20 năm, chúng ta thiếu rất nhiều và nếu có thì giữa luật của ta và Mỹ có nhiều điều vênh nhau. Trong khi số người Việt hiểu biết các đạo luật của Mỹ chỉ như “lá mùa thu”.

Thêm nữa, khi đó nền kinh tế của chúng ta chỉ khoảng 33 tỷ USD, trong khi đó Mỹ đã đạt hơn 10.000 tỷ USD.
Khi đó, ở Việt Nam, 70% người dân sống ở nông thôn với cái cày, cái cuốc, với con trâu. Ở Mỹ, chỉ có 2% làm nông nghiệp, trong đó 1% làm nông nghiệp trực tiếp, nhưng là nền nông nghiệp hiện đại nhất thế giới. Lúa mì, bông chiếm 28% thị trường thế giới. Đậu tương và ngô chiếm 57-58% thị trường thế giới. Lúc ấy đất nước ta chưa có một mét đường cao tốc nào cả.
Khi chuẩn bị đàm phán, Mỹ cũng tổ chức nhiều cuộc hội thảo về vấn đề này, mời nhiều chuyên gia hàng đầu tham vấn. Nhưng các chuyên gia cũng không nắm rõ kinh tế Việt Nam đang thế nào, lợi thế là gì. Bản thân người Mỹ cũng có quá ít thông tin về chúng ta.
Điều gì khiến ông quyết tâm phải đàm phán thành công với Mỹ?
– Tôi nhìn nhận được vấn đề Mỹ là thị trường mở, nơi bất kỳ quốc gia nào cũng có thể tiếp cận nếu có hàng hóa đủ sức cạnh tranh. Nhiều nền kinh tế châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đã tận dụng tốt cơ hội này để tăng trưởng nhanh chóng.
Việt Nam cũng cần phải đi con đường đó: muốn phát triển thì phải thâm nhập được vào thị trường Mỹ. Nhưng để làm được, chúng ta buộc phải ký được Hiệp định Thương mại với Mỹ, và xa hơn là mở cánh cửa gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Bên cạnh đó, tôi nhận ra BTA không chỉ là một thỏa thuận song phương, mà còn là một tiêu chuẩn quốc tế, một lộ trình giúp Việt Nam từng bước thoát khỏi cơ chế bao cấp để chuyển sang kinh tế thị trường. Chỉ khi có thị trường minh bạch, các nhà đầu tư và đối tác quốc tế mới có thể vào Việt Nam.

Dù khi ấy đất nước còn muôn vàn khó khăn, tôi vẫn tin rằng bằng mọi cách chúng ta sẽ phải ký kết thành công Hiệp định Thương mại Việt Nam – Mỹ.
Để ký hiệp định thành công với Mỹ, ông đã làm gì?
– Khi ấy, tôi đã có gần 20 năm kinh nghiệm trong nghề đàm phán, nhưng chủ yếu là với các nước xã hội chủ nghĩa cũ – nơi chúng ta có quan hệ đồng chí, cùng thể chế và hệ thống pháp luật khá tương đồng. Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ lại hoàn toàn khác.
Sau khi Liên Xô tan rã, tôi từng tham gia đàm phán với một số nước như Singapore, Thụy Sĩ, Na Uy… Nhưng tôi gần như không có hiểu biết gì về Mỹ, chỉ biết rằng đàm phán với họ là vô cùng khó khăn – ngay cả các đối tác dày dạn như Châu Âu, Nhật Bản hay Trung Quốc cũng phải dè chừng.
Khi được giao nhiệm vụ làm trưởng đoàn, tôi lập tức đi tìm thầy. Trong nước, thông tin về Mỹ quá ít ỏi, người hiểu về Mỹ cũng ít nên tôi phải tới các nước như Trung Quốc, Ba Lan, Hungary để “tầm sư học đạo”. Năm năm đàm phán với Mỹ là cuộc đấu trí rất cam go, tôi bỏ hết những vấn đề xung quanh, làm việc không kể ngày đêm, cả thứ 7, chủ nhật và ngày lễ.
Suốt quãng thời gian này, cuộc sống tôi chỉ xoay quanh những chương, điều khoản, văn bản về luật thương mại quốc tế. Thậm chí, tôi đọc hết những hiệp định mà Mỹ đã ký với các nước để nghiên cứu. Muốn đàm phán được với Mỹ chúng ta phải hiểu được họ và hiểu được “luật chơi”.

Trong 5 năm với 11 phiên đàm phán, cứ rời khỏi bàn đàm phán tôi lại trở về căn phòng ở trụ sở Bộ Thương mại cũ (nay là Bộ Công Thương) để làm việc. Tôi nhớ, có lần tôi ngã từ trên bàn xuống đất mà không biết gì. May mắn, khi vào bệnh viện, bác sĩ nói não không có vấn đề gì, chỉ là vì quá mệt mỏi.
Khi mới tiếp nhận bản dự thảo Hiệp định do phía Mỹ chuyển đến, quả thực là nhiều khái niệm mới và xa lạ với Việt Nam khi đó, chẳng hạn như sở hữu trí tuệ, dịch vụ, cạnh tranh, logistic, cổ phần, cổ phiếu…
Sau một thời gian dài nghiên cứu, chúng tôi đã đưa bản dự thảo cho họ. Bản dự thảo này có nhiều điểm khác xa so với bản mà phía Mỹ đã trao cho Việt Nam, đặc biệt là chương Dịch vụ và nhiều điều khoản khác. Phía Mỹ ngạc nhiên. Họ đã cho các chuyên gia nghiên cứu dự thảo của ta và thấy ta đúng, họ chấp nhận. Tôi cũng khẳng định với Mỹ, những gì chúng tôi cam kết sẽ thực hiện, những gì chưa cam kết, chúng tôi sẽ không thực hiện.
Rõ ràng, đây là một cuộc đàm phán vô cùng khó khăn đối với Việt Nam. Các nội dung được đặt lên bàn không chỉ đơn thuần là thương mại, mà còn chạm tới cả quan điểm, đường lối phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Những cam kết đó buộc chúng ta phải đối diện với sự thay đổi sâu rộng, va chạm đến toàn bộ hệ thống pháp luật khi ấy.

Khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam đối mặt với những vấn đề gì?
– Đã cam kết rồi thì phải thực hiện. Chính phủ Việt Nam đã tiến hành tổng rà soát toàn bộ các văn bản pháp luật, đối chiếu các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, đề xuất Quốc hội chương trình xây dựng luật.
Tôi còn nhớ, Luật Thương mại được ban hành năm 1997, nhưng đến năm 2000 – khi đàm phán hoàn tất, hầu như chưa có điều khoản nào thực sự đi vào cuộc sống.
Hay như các quy định về sở hữu trí tuệ, dài tới 80 trang. Thế nhưng, ngay gần trụ sở Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) trên phố Tràng Tiền, đoàn chuyên gia Mỹ lại bắt gặp đĩa Microsoft in lậu được bán với giá chỉ 5.000 đồng, trong khi giá có bản quyền lên tới 50 USD. Họ bức xúc nhưng khi đó, chúng ta không thể xử lý, bởi luật chưa có quy định cụ thể cũng như chưa giao trách nhiệm cho cơ quan nào thi hành.
Sau khi Hiệp định được ký kết, Quốc hội khóa 2001-2005 đã phải xây dựng mới, sửa đổi và bổ sung tới 137 dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết để từng bước đưa hệ thống pháp luật Việt Nam tiệm cận với “luật chơi” của WTO và chuẩn mực quốc tế. Hàng loạt đạo luật quan trọng như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Sở hữu trí tuệ… được ban hành hoặc chỉnh sửa.
Toàn bộ các ngành dịch vụ vốn chưa có luật như tài chính, ngân hàng, viễn thông, giao thông vận tải, du lịch… cũng phải viết mới theo cơ chế thị trường, đồng thời xác định lại vai trò của người dân. Nếu trước kia doanh nghiệp hay cá nhân muốn kinh doanh gì đều phải “xin – cho”, thì sau Hiệp định, nguyên tắc đã thay đổi căn bản: người dân và doanh nghiệp được quyền tự do đầu tư, kinh doanh mọi lĩnh vực mà pháp luật không cấm.

Thế mạnh của Việt Nam khi đó là gì để tự tin đàm phán với Mỹ?
– Người Mỹ rất thực dụng, yêu cầu của họ chỉ đơn giản là đôi bên cùng có lợi. Chúng ta khi đó vừa trải qua một cuộc chiến với họ, nên họ rất nể mình. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng là thị trường tiềm năng với dân số tương đối đông, nhân lực lao động dồi dào. Chúng ta nằm ngay cạnh thị trường 1,4 tỷ dân, quá hấp dẫn. Ngoài ra, Việt Nam nằm ở vị trí quá chiến lược. Mỹ cũng cần Việt Nam để tạo thế cân bằng trong khu vực. Chính những yếu tố đó đã tạo cơ sở để Việt Nam có thể ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ một cách sòng phẳng.
Điều gì để lại ấn tượng nhất với ông về đàm phán hiệp định này?
– Sau khi chuyển lại dự thảo Hiệp định, tôi bay qua Washington DC. Thật bất ngờ, tại phiên đàm phán hôm đó có rất đông quan chức Mỹ và cả đại diện WTO cùng tham dự. Tôi lấy làm lạ và hỏi ông Joe Damond – Trưởng đoàn đàm phán phía Mỹ khi ấy, thì nhận được câu trả lời:“Chúng tôi thực sự bất ngờ trước sự tiến bộ của Việt Nam. Đàm phán với một đối tác như các bạn, chúng tôi cũng cảm thấy thích thú”.
Ngày 13/7/2000, tại cuộc họp báo ở Nhà Trắng vài phút sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ (BTA) được ký, Tổng thống Mỹ lúc đó là ông Bill Clinton gửi lời cảm ơn tới 3 người Việt Nam đã đóng góp vào quá trình đi đến hiệp định này. Đó là ông Vũ Khoan – Bộ trưởng Thương mại, ông Nguyễn Đình Lương – Trưởng đoàn đàm phán BTA và ông Lê Văn Bàng – Đại sứ Việt Nam.
Khi ấy, Đại sứ Mỹ Pete Peterson nói rằng, xuất khẩu của Việt Nam sẽ nhanh chóng tăng lên 6-7 tỷ USD. Tôi không tin, vì mấy chục năm tôi đi đàm phán với Liên Xô, xuất khẩu của Việt Nam khi đó chưa đạt được 1 tỷ rúp.
Vậy mà, chỉ sau một năm ký hiệp định, xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gấp đôi, Mỹ trở thành thị trường lớn nhất của chúng ta. Đến năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã nhanh chóng tăng lên hơn 405 tỷ USD. Riêng với Mỹ, kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ năm 2024 đạt 120 tỷ USD. Đây vẫn là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam. Thực sự không ngờ thương mại lại phát triển nhanh ngoài sức tưởng tượng như thế.

Chỉ sau khi ký được hiệp định với Mỹ, các doanh nghiệp trên thế giới nhanh chóng tràn vào Việt Nam đầu tư, kinh doanh. Những điều này đã giúp GDP của Việt Nam chỉ là 39 tỷ USD vào năm 2000 nhanh chóng tăng lên 476 tỷ USD vào năm 2024. Đây là những con số tăng trưởng nhanh chóng, ngoài sức tưởng tượng của tôi.
Nhìn lại BTA sau 25 năm, liệu có điều gì trong quá trình đàm phán khiến ông tiếc nuối?
– 25 năm nhìn lại, kỳ thực tôi mãn nguyện với những gì BTA mang lại. Lúc chúng tôi đi đàm phán, không nhiều người hiểu được BTA là gì. Đó cũng là cái vừa dở, vừa hay, bởi chúng tôi đạt được mục đích là phá vỡ những tư duy bảo thủ, đưa luật chơi của Việt Nam từng bước tiệm cận chuẩn mực quốc tế.
25 năm qua, quan hệ Mỹ và Việt Nam ngày càng phát triển tốt đẹp. Trong quá trình phát triển này, kinh tế đóng vai trò trụ cột. Kinh tế càng phát triển nhanh bao nhiêu thì giao lưu càng nhiều, càng hiểu, càng củng cố, tạo dựng được niềm tin.
Hiện nay Việt Nam và Mỹ đã có lòng tin với nhau, từ đó phát triển được nhiều vấn đề hợp tác khác.
Hiệp định BTA có tầm quan trọng thế nào đối với Việt Nam?
– Sau khi ký kết thành công Hiệp định BTA, chúng ta đã tham gia được WTO. Những điều này đã giúp Việt Nam không ngừng mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới. Sau này, chúng ta có Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và nhiều nước, tổ chức khác.

Theo ông, trong bối cảnh thương mại thế giới có nhiều biến động, Việt Nam cần làm gì?
– Hiện nay, Việt Nam là đối tác chiến lược toàn diện của nhiều nước trên thế giới, bao gồm cả các cường quốc. Tôi cho rằng, Việt Nam cần chú trọng đào tạo, phát triển các ngành công nghệ cao để có thể thâm nhập vào thị trường các nước. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp của chúng ta cần nâng cao trình độ, sản phẩm chất lượng cao và sức cạnh tranh.
Việt Nam đang ở vị thế tuyệt vời, chưa bao giờ có. Chúng ta đã ký hiệp định thương mại với hầu hết nước trên thế giới. Bây giờ, chúng ta cần củng cố, nâng cao quan hệ với các nước. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy với các nước, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945-19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945-2/9/2025), ông muốn nhắn gửi điều gì tới giới trẻ hôm nay để tiếp nối tinh thần và đưa đất nước phát triển, hội nhập sâu rộng hơn?
– Trước hết, tôi muốn gửi lời chúc mừng tới các bạn trẻ hôm nay. Các bạn thật may mắn khi được sinh ra và lớn lên trong một đất nước hòa bình, hạnh phúc, đang ngày càng phát triển mạnh mẽ và chắc chắn tương lai sẽ còn rực rỡ hơn nữa. Tôi rất trân trọng tinh thần yêu nước, niềm tự hào và lòng biết ơn mà thế hệ trẻ hiện nay luôn sẵn sàng thể hiện đối với những thế hệ đi trước.
Đúng vào dịp kỷ niệm đại lễ lớn của dân tộc, khi không khí hân hoan lan tỏa trên khắp mọi miền đất nước, đó cũng là thời điểm để chúng ta cùng nhìn lại những dấu mốc lịch sử trọng đại, đồng thời hướng tới những thành công mới ở phía trước.
Tôi mong rằng tuổi trẻ Việt Nam hôm nay sẽ tiếp tục nỗ lực học tập, rèn luyện và lao động sáng tạo, để góp phần đưa đất nước phát triển hùng cường, xứng đáng với truyền thống hào hùng mà cha ông đã để lại.
Xin cảm ơn ông!