Công nhân làm việc tại nhà máy AA Tây Ninh, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh – Ảnh: QUANG ĐỊNH
Các chuyên gia cũng khuyến cáo những hệ lụy từ việc dòng vốn không được phân bổ đúng hướng, nếu chảy vào kênh đầu cơ như bất động sản, chứng khoán, vàng sẽ tạo bong bóng tài sản và lan sang chi phí sản xuất, từ đó đẩy lạm phát leo thang.
Bằng cách kết hợp đồng thời hai trụ cột là giám sát theo ngành và kiểm soát dòng tiền sẽ giúp Ngân hàng Nhà nước chủ động ngăn dòng vốn chảy vào lĩnh vực rủi ro, từ đó giảm thiểu nợ xấu và hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô
Ông Lê Hoài Ân (CFA, chuyên gia tài chính ngân hàng)
Tín nhiệm ngân hàng bị ảnh hưởng
Số liệu của Vietnam Report cho thấy tổng nợ xấu toàn hệ thống cuối quý 1-2025 đã vượt 300.000 tỉ đồng, tăng 16,8% so với cùng kỳ 2024 và tăng 13,4% so với đầu năm.
Đáng chú ý, nợ nhóm 5 (có khả năng mất vốn) đã tăng mạnh, chiếm 1,25% tổng dư nợ cho vay – tương đương hơn 176.000 tỉ đồng, vượt cả tổng nợ xấu toàn hệ thống vào cuối năm 2022.
Ông Phan Duy Hưng, CFA – giám đốc phân tích cấp cao tại VIS Rating – cho biết một số ngân hàng quốc doanh và ngân hàng quy mô vừa đã bị hạ mức tín nhiệm trong quý 1 do nợ xấu tăng nhanh.
Nguyên nhân chủ yếu đến từ các khoản cho vay mua bất động sản mang tính đầu cơ và doanh nghiệp thiếu hụt dòng tiền. Điều này làm giảm tỉ suất sinh lời trên bình quân tổng tài sản (ROAA) và bộ đệm rủi ro bị bào mòn.
Dù một số ngân hàng lớn vẫn duy trì được sự ổn định nhờ siết chặt cho vay đối với nhóm khách hàng yếu, nhưng toàn ngành đang chịu sức ép về thanh khoản do tăng trưởng tín dụng vượt xa tốc độ huy động vốn.
Bà Trần Thị Khánh Hiền – giám đốc khối nghiên cứu MBS – nhận định chất lượng tài sản chưa cải thiện rõ rệt. Nợ xấu và nợ nhóm 2 (quá hạn 10-90 ngày) đang tăng trở lại, khiến chi phí trích lập dự phòng trong quý 2 có thể tăng khoảng 10% so với cùng kỳ.
Cùng quan điểm, ông Lê Văn Thành – cố vấn tại WiGroup – cảnh báo nợ nhóm 2 có thể tiếp tục tăng nếu kinh tế phục hồi không đủ mạnh. “Các doanh nghiệp có nền tảng tài chính yếu sẽ chịu áp lực trả nợ lớn hơn trong thời gian tới”, ông nói.
Rủi ro khi vốn rẻ không vào đúng chỗ
Ông Lê Hoài Ân – CFA, chuyên gia tài chính ngân hàng, nhà sáng lập Công ty CP Giải pháp tài chính – chỉ ra yếu tố những rủi ro nếu dòng vốn giá rẻ chảy vào các kênh đầu cơ như bất động sản, chứng khoán, vàng. “Tình trạng này có thể tạo ra bong bóng tài sản, từ đó lan sang giá cả sản xuất và chi phí sinh hoạt, đẩy lạm phát leo thang”, ông Ân nhận định.
Kết hợp với xu hướng tăng giá nguyên liệu toàn cầu trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị phức tạp, nếu không định hướng tín dụng chặt chẽ về sản xuất – kinh doanh, lạm phát có thể vượt mục tiêu, ảnh hưởng đến người dân và doanh nghiệp, ông Ân chia sẻ thêm.
Nhìn về lạm phát, các chuyên gia đánh giá chưa có tác động quá lớn tới chỉ tiêu này, năm nay Chính phủ cũng xác định mức cao hơn năm ngoái. Chỉ số CPI bình quân 5 tháng đầu năm đạt 3,21%, vẫn thấp hơn mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4,5%. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý khả năng CPI có thể bị đẩy lên vào cuối năm, khi độ trễ của chính sách tiền tệ bắt đầu tác động rõ nét hơn.
Điều quan trọng là định hướng dòng vốn vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao như công nghiệp chế biến – chế tạo, công nghiệp hỗ trợ và xuất khẩu.
“Khi nguồn tín dụng tập trung vào chuỗi sản xuất, giá trị đầu ra của nền kinh tế được nâng lên, đồng thời giảm thiểu tình trạng bơm vốn quá mức vào các kênh đầu cơ, hạn chế sức ép lên giá cả hàng hóa không thiết yếu”, ông Ân phân tích.
Doanh nghiệp vẫn than khó tiếp cận vốn rẻ khi ngân hàng yêu cầu tài sản thế chấp – Ảnh: Q.ĐỊNH
Lập ngưỡng cảnh báo theo từng lĩnh vực?
Theo các chuyên gia, để kiểm soát chặt dòng tiền, Ngân hàng Nhà nước cần yêu cầu tất cả tổ chức tín dụng định kỳ báo cáo cơ cấu tín dụng chi tiết theo 10-12 ngành trọng yếu như nông nghiệp, công nghiệp chế biến, bất động sản, chứng khoán, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ…
Mỗi quý, các ngân hàng sẽ phải nộp số liệu về dư nợ, mức tăng trưởng tín dụng và tỉ lệ nợ xấu của từng ngành.
Dựa trên dữ liệu này, Ngân hàng Nhà nước sẽ thiết lập “ngưỡng cảnh báo” cho từng lĩnh vực. Ví dụ: nếu tín dụng bất động sản vượt 20% tổng dư nợ hoặc cho vay chứng khoán vượt 5%, ngân hàng sẽ phải áp dụng hệ số rủi ro cao hơn, đồng thời trích lập dự phòng nhiều hơn.
Khi vượt ngưỡng, Ngân hàng Nhà nước sẽ trực tiếp làm việc với ban lãnh đạo ngân hàng để rà soát danh mục cho vay và có thể áp hạn mức tín dụng mới cho đến khi tình hình trở lại mức an toàn.
Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng được khuyến nghị phối hợp với Ủy ban Chứng khoán nhà nước và Bộ Xây dựng để chia sẻ dữ liệu, tránh việc giám sát bị chồng chéo hoặc bỏ sót.
Thứ hai, kiểm soát dòng tiền giải ngân đến tận cùng. Về vấn đề này, ông Lê Hoài Ân cho rằng để đảm bảo vốn vay được sử dụng đúng mục đích, Ngân hàng Nhà nước cần yêu cầu ngân hàng triển khai chuỗi kiểm soát đầu cuối với từng trụ cột.
Đầu tiên là hồ sơ vay vốn minh bạch và đầy đủ, muốn vậy, mỗi khoản vay cần đi kèm cam kết rõ ràng về mục đích sử dụng vốn, phương án kinh doanh cụ thể, dự báo dòng tiền 6-12 tháng, cùng tài sản đảm bảo phù hợp.
Thứ hai là có phương thức theo dõi giao dịch thực tế, Ngân hàng Nhà nước nên khuyến khích các ngân hàng kết nối hệ thống Core Banking với phần mềm kế toán của doanh nghiệp để giám sát dòng tiền.
Khoản vay giải ngân không được chuyển sang tài khoản ngoài danh mục đã đăng ký. Các ngân hàng phải báo cáo chi tiết dòng tiền ra – vào theo từng đối tác hằng tháng.
Cuối cùng Ngân hàng Nhà nước phối hợp với cơ quan thanh tra – kiểm toán nhà nước để thực hiện kiểm tra hằng năm, đồng thời có thể thanh tra đột xuất nếu phát hiện dấu hiệu rủi ro. Trường hợp phát hiện sử dụng vốn sai mục đích, ngân hàng sẽ bị xử phạt hành chính và buộc thu hồi vốn.
Doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận vốn rẻ
Bà Trần Thị Khánh Hiền cho rằng nền kinh tế còn lệ thuộc vào tín dụng ngân hàng, trong khi huy động qua kênh trái phiếu, cổ phiếu chưa đạt kỳ vọng.
Thực tế, các ngân hàng vẫn chủ yếu cho vay dựa trên tài sản đảm bảo truyền thống (bất động sản, tài sản cố định), khiến nhiều doanh nghiệp khó tiếp cận vốn vì thiếu tài sản thế chấp.
Trong khi đó, trái phiếu lại linh hoạt hơn, có thể không cần tài sản đảm bảo trong một số trường hợp, giúp doanh nghiệp dễ huy động vốn trung – dài hạn, cần thúc đẩy được kênh này, giảm tải cho ngân hàng, theo bà Hiền.
Theo ông Lê Văn Thành, tín dụng trong ngắn hạn giống như liều thuốc hồi phục, nhưng dài hạn, nếu nền kinh tế vay mượn quá nhiều như một doanh nghiệp vay quá sức, chi phí trả nợ sẽ bào mòn nguồn lực đầu tư, làm giảm năng lực tích lũy và tái đầu tư.
“Ví dụ, nếu nền kinh tế tạo ra 10 đồng mà phải dành 3-4 đồng để trả nợ thì sẽ thiếu hụt cho đầu tư mới. Điều này không chỉ làm tăng chi phí sản xuất, giảm sức cạnh tranh, mà còn dẫn đến nguy cơ mất cân đối vĩ mô. Khi hệ số sử dụng vốn vay quá cao, các ngân hàng sẽ trở nên dè dặt, ảnh hưởng ngược đến doanh nghiệp”, ông Thành phân tích.