Dư nợ tín dụng/GDP là 134% vào cuối năm 2024, con số được nhiều chuyên gia lên tiếng cảnh báo – Ảnh: NGỌC PHƯỢNG
Đi kèm với tăng trưởng tín dụng là nỗi lo ngại về nợ xấu. Tổng nợ xấu của 27 ngân hàng ở cuối quý 1-2025 xấp xỉ 264.000 tỉ đồng, tăng khoảng 16% so với đầu năm (hơn 37.000 tỉ đồng).
Ngoài ra, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng lưu ý vốn trong nước còn phụ thuộc nhiều vào tín dụng ngân hàng, kể cả vốn trung và dài hạn.
Trong đó dư nợ tín dụng/GDP (tổng sản phẩm nội địa) là 134% vào cuối năm 2024, nên nếu tiếp tục dựa vào nguồn vốn ngân hàng sẽ tiềm ẩn rủi ro và gây hệ lụy cho nền kinh tế, khó có thể tăng trưởng cao, khó đi đôi với bền vững, Thống đốc nói trước Quốc hội.
4 ngân hàng quốc doanh bơm ra nền kinh tế hơn 7,1 triệu tỉ đồng
Trong nhóm ngân hàng quốc doanh, BIDV dẫn đầu về dư nợ cho vay khách hàng với hơn 2,1 triệu tỉ đồng, tăng 2,5% so với đầu năm. Theo sát là VietinBank với quy mô cho vay vượt 1,8 triệu tỉ đồng, tăng gần 4,6%.
Không công bố báo cáo tài chính quý 1, nhưng một báo cáo tổng kết từ Agribank cho biết tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đến cuối tháng 3 đạt gần 1,75 triệu tỉ đồng.
Vietcombank – ngân hàng có lợi nhuận lớn nhất hệ thống – lại ghi nhận dư nợ cho vay thấp nhất trong nhóm “Big 4”, với hơn 1,46 triệu tỉ đồng, tăng khoảng 1,2%.
Tổng cộng, 4 “ông lớn” quốc doanh đã tung hơn 7,12 triệu tỉ đồng vào nền kinh tế trong ba tháng đầu năm, nhiều hơn tất cả các ngân hàng tư nhân còn lại cộng lại. Tuy nhiên mức tăng 3 tháng đầu năm nay của nhóm này chỉ dưới 2%, thấp hơn mặt bằng chung toàn ngành.
Trong báo cáo phân tích về ngành ngân hàng, đội ngũ chuyên gia VIS Rating – công ty xếp hạng tín nhiệm có vốn của Moody’s nhận định: Trong quý 1-2025, năng lực tín nhiệm suy giảm đối với một số ngân hàng quốc doanh (SOB) và ngân hàng quy mô vừa, do gia tăng nợ xấu (NPL) từ các khoản cho vay mua nhà cá nhân trong phân khúc mang tính đầu cơ và từ các khách hàng doanh nghiệp gặp khó khăn dòng tiền.
Điều này cũng làm giảm tỉ suất sinh lời trên bình quân tổng tài sản (ROAA) và bộ đệm hấp thụ rủi ro, theo chuyên gia VIS Rating. Cụ thể, rủi ro tài sản tiềm ẩn đang gia tăng cho các SOB có quy mô đáng kể đối với khách hàng là doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) như VCB, BIDV và đối với các ngân hàng có danh mục cho vay tài chính tiêu dùng cá nhân lớn như VPB, HDB, MBB trong bối cảnh rủi ro thuế quan đối ứng của Mỹ.
Ngoài ra theo VIS Rating, hồ sơ nguồn vốn và thanh khoản toàn ngành suy giảm, do tăng trưởng cho vay vượt huy động tiền gửi.
Tín dụng tiếp tục tăng, nhưng NIM còn áp lực?
Trong báo cáo cập nhật vừa công bố, nhóm phân tích của Chứng khoán MB (MBS) đưa ra nhận định tích cực về tăng trưởng tín dụng tại nhiều ngân hàng trong quý 2-2025.
Cụ thể, VPBank (VPB) được dự báo có thể đạt mức tăng trưởng tín dụng khoảng 12% tính đến cuối tháng 6-2025. Tuy nhiên, biên lãi ròng (NIM) của ngân hàng này dự kiến duy trì ở mức 5,9%, đi ngang so với quý trước nhưng giảm nhẹ so với cùng kỳ do nền so sánh cao của năm 2024.
Tại Sacombank (STB), tín dụng đến cuối quý 2 dự báo tăng khoảng 9%, trong khi NIM có thể giảm khoảng 10 điểm cơ bản, xuống còn 3,6%.
Với VietinBank (CTG), MBS ước tính tăng trưởng tín dụng sẽ đạt 10%, đi kèm NIM giữ ổn định ở mức 2,6%.
HDBank (HDB) được dự báo tăng trưởng tín dụng khoảng 6% trong quý 2, chủ yếu nhờ mức nền thấp trong quý 1. Tuy nhiên, MBS lưu ý rằng nhóm khách hàng chủ lực của ngân hàng có thể chịu tác động đáng kể từ các quy định mới liên quan đến khai thuế và hóa đơn điện tử. NIM của HDB dự kiến tiếp tục giảm, xuống còn 4,5%.
Ngoài ra, nhiều ngân hàng khác cũng được dự báo sẽ có mức tăng trưởng tín dụng tích cực tính đến cuối quý 2/2025, bao gồm: ACB (8%), BIDV (8%), LPB (+10%), VCB (+7%), OCB (+7%), TCB (+9%), VIB (+8%)…
Tính đến ngày 16-6-2025, tăng trưởng tín dụng toàn ngành đã đạt 6,99% so với đầu năm, cao hơn đáng kể so với mức 3,75% của cùng kỳ năm 2024.
Theo bà Trần Thị Khánh Hiền, giám đốc khối nghiên cứu MBS, đà tăng trưởng tín dụng hiện tại vẫn chủ yếu đến từ phân khúc khách hàng doanh nghiệp, được hỗ trợ bởi mặt bằng lãi suất duy trì ở mức thấp. Tuy nhiên, yếu tố này cũng khiến NIM khó cải thiện so với quý đầu năm.
Một điểm đáng lo ngại là chất lượng tài sản toàn ngành chưa có dấu hiệu cải thiện rõ nét. Nợ xấu và nợ nhóm 2 đều tăng trong quý 1, khiến chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trong quý 2-2025 được dự báo sẽ tăng khoảng 10% so với cùng kỳ.